TIN TỨC

  • -

We measure today for a sustainable tomorrow

Welcome to the 2024 World Metrology Day Resource website. The theme for World Metrology Day 2024 is Sustainability.

Metrology provides the foundation for data-driven decision-making and policy development in sustainability. By ensuring accurate measurements across various aspects of sustainability, it helps organizations, governments and individuals make informed choices that contribute to a more sustainable future.

Our focus for World Metrology Day in 2024 is on the numerous measurement opportunities that contribute to the establishment of a sustainable global economy and environment.

The 2024 poster was designed in association with EURAMET and TÜBITAK UME, Türkiye.

World Metrology Day is the annual celebration of the signature of the Metre Convention on 20 May 1875 by representatives of seventeen nations. The Convention set the framework for global collaboration in the science of measurement and in its industrial, commercial and societal applications. The original aim of the Metre Convention – the world-wide uniformity of measurement – remains as important today as it was in 1875.

The World Metrology Day project is realized jointly by the BIPM and the OIML. We hope that you enjoy this site and that your Country or Metrology Organization will join us and participate in this year’s event.

Warm regards,

The WMD Team


  • -

Thông báo v/v thôi giữ chức vụ và thôi việc theo nguyện vọng đối với Trưởng phòng K2

Trung tâm Kỹ thuật 2 đang làm thủ tục thôi giữ chức vụ và thôi việc theo nguyện vọng của ông Lương Ngọc Nhựt – Trưởng phòng K2. Dự kiến đến ngày 05/4/2024 sẽ hoàn tất thủ tục. Vì vậy Trung tâm Kỹ thuật 2 kính thông báo đến Quý khách hàng, Đối tác được biết và tiện liên hệ công tác trong thời gian đến.

  Phòng Hành chính – Tổ chức


  • -

Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng

Như chúng ta đều đã biết, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào ngày 3/2/1930, có nghĩa là đến ngày 3/2/2025 tới đây, Đảng ta sẽ tròn 95 tuổi, và đến năm 2030 sẽ tròn 100 tuổi. Đây là những mốc son chói lọi, có ý nghĩa lịch sử to lớn của Đảng, của đất nước và dân tộc ta.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang chung sức đồng    lòng, tranh thủ mọi thời cơ và thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn và thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ được đề ra trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; đồng thời, khởi động quá trình chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Đại hội XIV sẽ đi sâu kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, tổng kết 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó rút ra những bài học quan trọng; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong 5 năm tới (2026-2030); tiếp tục thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2021-2030).

Đại hội XIV sẽ lại là một dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, có ý nghĩa định hướng tương lai; khích lệ, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định đây là sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Nước ta sẽ là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Để góp phần thiết thực kỷ niệm Ngày thành lập Đảng 3/2/2024, khơi dậy niềm tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, dân tộc Việt Nam anh hùng; tăng cường niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của đất nước ta, dân tộc ta; cũng như nêu cao hơn nữa trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống chính trị, tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và cách mạng của toàn dân tộc, quyết tâm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng, chúng ta cần nhìn lại, đánh giá một cách khách quan, toàn diện những kết quả, thành tựu và bài học kinh nghiệm chủ yếu mà Đảng ta, đất nước ta, dân tộc ta đã đạt được qua các chặng đường lịch sử:

(1) Đảng ra đời, lãnh đạo cách mạng, giành chính quyền (từ năm 1930 đến năm 1945)

(2) Toàn quốc kháng chiến, lập lại hòa bình ở miền Bắc (từ năm 1946 đến năm 1954)

(3) Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (từ năm 1955 đến năm 1975)

(4) Khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội (từ năm 1976 đến năm 1985)

(5) Tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay (từ năm 1986 đến nay)

(6) Từ nay đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng

Từ đó, đề ra các nhiệm vụ và giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo – cầm quyền của Đảng; đẩy mạnh đồng bộ và toàn diện công cuộc đổi mới; thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là đến năm 2025 và năm 2030 xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài viết này là một trong những ý tưởng theo tinh thần nêu trên và xin được trình bày theo bố cục gồm 3 phần chính như sau:

ĐẢNG TA RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP  DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (Ảnh: Đoàn Bắc).

Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và giữ nước, kiên quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta.

Nối tiếp truyền thống đó, từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, không cam chịu làm thân phận nô lệ, Nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh qua các phong trào yêu nước diễn ra liên tục và mạnh mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh hướng khác nhau.

Từ con đường cứu nước của các sĩ phu cho đến các cuộc khởi nghĩa nông dân và con đường cách mạng tư sản… mặc dù đã đấu tranh rất kiên cường, đầy tâm huyết và chịu những hy sinh to lớn, song, do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một đường lối đúng, các phong trào đó đã không thành công. Lịch sử đòi hỏi phải tìm con đường mới.

Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức là Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta) đã ra đi tìm con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Mang trong mình khát vọng lớn lao, cháy bỏng, Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy ở học thuyết cách mạng này con đường cứu nước đúng đắn – con đường cách mạng vô sản.

Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người đã kiên trì nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam, dày công chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thành lập một đảng cách mạng chân chính.

Ngày 3/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam.

Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng.

Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân tộc và nguyện vọng tha thiết của nhân dân.

Sau khi ra đời, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối; chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh; Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945), để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “long trời, lở đất”, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02/9/1945 (năm 2025 chúng ta sẽ kỷ niệm tròn 80 năm).

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cách mạng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách; cùng một lúc phải đương đầu với “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.

Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, kiên cường bảo vệ và xây dựng chính quyền non trẻ, đồng thời tích cực chuẩn bị về mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức mình là chính”, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước ta lại bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

Nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối vào ngày 30/4/1975.

Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” (năm 2025 chúng ta sẽ kỷ niệm tròn 50 năm).

Trong lúc phải khẩn trương khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do chiến tranh để lại, nhân dân Việt Nam lại tiếp tục phải đương đầu với những cuộc chiến tranh mới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta vừa tập trung khôi phục kinh tế – xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước.

Nhìn lại chặng đường 1930-1975, chúng ta rất đỗi tự hào, tin tưởng và biết ơn sâu sắc Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đã luôn luôn sáng suốt lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi vang dội khác, viết tiếp vào lịch sử của dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng những trang vàng chói lọi, được thế giới ngưỡng mộ, đánh giá cao: Tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất, giành chính quyền về tay Nhân dân, đưa nước ta ra khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc vào năm 1945; Trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kết thúc bằng Hiệp định Giơ-ne-vơ và thắng lợi của chiến dịch Điện Biên phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; Vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ trên không và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH; TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ; XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TA NGÀY CÀNG ĐÀNG HOÀNG HƠN, TO ĐẸP HƠN

Các đại biểu dự Hội nghị Trung ương khóa XIII (Ảnh: Đoàn Bắc).

Sau khi đất nước được thống nhất, nước ta phải đối mặt với nhiều hậu quả rất nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại.

Để khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng ta đã tập trung lãnh đạo xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 1976-1980 và 1981-1985.

Qua đó, hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục – đào tạo, giao thông, thủy lợi từng bước được khôi phục. Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể được chăm lo phát triển, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đất nước đã hòa bình, để khắc phục những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế – xã hội những năm sau chiến tranh, trên cơ sở tổng kết sáng kiến, sáng tạo trong thực tiễn của nhân dân, Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, từng phần trong nông nghiệp, công nghiệp và từng bước hình thành Đường lối đổi mới đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy” đã đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đường lối đổi mới ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.

Sau Đại hội VI, Đảng đã từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối đổi mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ Đại hội.

Những năm 90 của thế kỷ XX, vượt qua thách thức từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã kiên định, tiếp tục vững bước và sáng tạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa VI đến khóa XIII đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề cơ bản, hệ trọng của Đảng và sự phát triển của đất nước.

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta đã xác định cần phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo ra được sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; lực lượng sản xuất rất thấp, lại phải trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, do đó nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa  bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản.

Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này cũng phải có sự chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.

Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

Điều đó có nghĩa là: Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn.

Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Đảng ta luôn xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.

Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Đảng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội.

Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.

Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

Đồng thời, Đảng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.

Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của Nhân dân lao động và toàn dân tộc.

Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ.

Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa…, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa… trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, thực sự đem lại những thay đổi lớn lao, rất tốt đẹp cho đất nước trong gần 40 năm qua, góp phần làm cho Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nước ta đã trở thành một nước độc lập, có chủ quyền; giang sơn gấm vóc 330.000km2 từ Hữu Nghị Quan đến Mũi Cà Mau với hơn 3.200km bờ biển và địa chính trị, địa kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt đã được thu về một mối.

Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái.

Sau chiến tranh, Mỹ và Phương Tây đã áp đặt bao vây, cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm.

Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500 USD).

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới.

Công nghiệp và dịch vụ phát triển khá nhanh, liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 88% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 355 tỷ USD, xuất siêu đạt mức kỷ lục 28 tỷ USD; Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu.

Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2023. Đầu tư nước ngoài liên tục phát triển, vốn đăng ký tăng 32%, vốn thực hiện tăng 3%, đạt 23 tỷ USD trong năm 2023, cao nhất từ trước đến nay; và Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu ASEAN về thu hút FDI. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức quốc tế đánh giá đứng thứ 46/132 nước được xếp hạng.

Hiện Việt Nam vẫn ở thời kỳ dân số vàng với quy mô dân số hơn 100 triệu người (năm 1945, 1975, 1986 lần lượt là hơn 20, 47 và 61 triệu người), đứng thứ 16 thế giới, trong đó có khoảng 53 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên và 54 dân tộc anh em; khối đại đoàn kết các dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường.

Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, nâng cao gắn với sự chăm lo đầu tư phát triển các ngành y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ theo đúng tinh thần coi ưu tiên đầu tư phát triển các lĩnh vực này là quốc sách hàng đầu; hiện đã có 12,5 bác sĩ và 32 giường bệnh trên 1 vạn dân.

Cùng với Trung Quốc, Việt Nam được Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục và đã đạt được sự phát triển rất ấn tượng trong lĩnh vực này.

Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân.

Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% theo chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước) năm 2023.

Đến nay, có 78% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và mạng điện thoại.

Quá trình đô thị hóa được đẩy mạnh gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tỷ lệ đô thị hóa đã đạt khoảng 43%; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở cả nông thôn và đô thị, nhất là hạ tầng y tế, giáo dục – đào tạo, giao thông, bưu chính viễn thông đều có bước phát triển mạnh mẽ; đã đưa vào sử dụng nhiều sân bay, bến cảng hiện đại, hơn 1.900km đường cao tốc và phủ sóng rộng rãi mạng 4G, 5G.

Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2014; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần trong gần 40 năm qua.

Hiện nay, Việt Nam có gần 99% số người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam mở rộng diện bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện, đến nay đã đạt mức 93,35% (năm 1993 mới chỉ là 5,4%); đồng thời tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.

Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2023.

Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc.

Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có gần 80% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ.

Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng.

Trong điều kiện xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình, Đảng ta vẫn thường xuyên sát sao lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; đã ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nhiều Chiến lược bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ; mới đây nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trong đó, đã khẳng định: Luôn luôn phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; dựa vào dân, lấy “dân là gốc”, khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hóa, yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân”, lấy “yên dân” là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chú trọng bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; tập trung ưu tiên thực hiện thắng lợi đồng bộ các nhiệm vụ chính trị: Phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên quyết, kiên trì, chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước; Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chủ động, tích cực hội nhập, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

Nhờ đó, nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân luôn luôn được củng cố, tăng cường, nâng cao hiệu quả; chủ quyền quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định luôn luôn được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội luôn luôn được bảo đảm; quân đội nhân dân, công an nhân dân được chăm lo đầu tư, xây dựng ngày càng tinh, gọn, mạnh cả về chính trị, tư tưởng và vũ khí, trang thiết bị theo phương châm: Người trước, súng sau; từng bước tiến lên hiện đại, có một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.

Các tình huống phức tạp trên biển và tuyến biên giới được xử lý linh hoạt, hiệu quả và phù hợp.

Các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được tăng cường; tập trung trấn áp các loại tội phạm; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động; đối thoại thẳng thắn với những người có chính kiến khác.

Chỉ số hòa bình toàn cầu năm 2023 của Việt Nam đứng thứ 41 trong số 163 nước được xếp hạng. Nước ta được các nhà đầu tư nước ngoài và du khách quốc tế đánh giá là điểm đến hấp dẫn và an toàn hàng đầu thế giới.

Nhìn lại chặng đường đối ngoại vừa qua, chúng ta vui mừng và tự hào nhận thấy: Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên một trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.

Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc.

Kết quả là, từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 193 nước, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện.

Đặc biệt là, nước ta hiện đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, và mở rộng quan hệ kinh tế – thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất và chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.

Các hoạt động đối ngoại diễn ra hết sức sôi động, liên tục và là điểm sáng nổi bật của năm 2023 với nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đã đi thăm chính thức nhiều nước, tham dự nhiều diễn đàn quốc tế lớn, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Việc tổ chức đón rất thành công Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống Mỹ Joe Biden, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thoonglun, Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia Hun Sen và nhiều nguyên thủ quốc gia các nước đến thăm Việt Nam được đánh giá là những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, góp phần khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

Thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam.

Mặt khác, thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân.

Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy.

Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng.

Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu.

Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí.

Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả.

Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng! Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

PHÁT HUY HƠN NỮA TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG VẺ VANG, QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC ĐẾN NĂM 2025 VÀ NĂM 2030, XÂY DỰNG MỘT NƯỚC VIỆT NAM NGÀY CÀNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH, VĂN HIẾN VÀ ANH HÙNG

Các đại biểu dự Hội nghị Trung ương khóa XIII (Ảnh: Đoàn Bắc).

Chúng ta tự hào, tin tưởng tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng sẽ còn có nhiều khó khăn, thách thức lớn.

Trên thế giới, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gay gắt; sự tranh chấp chủ quyền biển, đảo diễn biến phức tạp; các cuộc xung đột quân sự ở một số khu vực trên thế giới tác động đến địa chính trị, địa kinh tế, an ninh năng lượng và chuỗi cung ứng toàn cầu; khoa học – công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới đối với mọi quốc gia, dân tộc; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, có thể đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta…

Ở trong nước, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn: Để hoàn thành được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội do Đại hội XIII của Đảng đề ra thì tốc độ tăng trưởng bình quân 6 năm 2024-2030 phải đạt khoảng 8%, khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ phải phát triển mạnh mẽ hơn, tăng khoảng 4,5 điểm phần trăm đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.

Đây là mức rất cao, đòi hỏi chúng ta phải có sự quyết tâm cao và nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được.

Thị trường tài chính – tiền tệ, nhất là thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp sẽ diễn biến rất phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thanh khoản của một số ngân hàng thương mại yếu kém và doanh nghiệp, dự án lớn sẽ gặp nhiều khó khăn. Lãi suất ngân hàng vẫn ở mức cao, sức ép lạm phát còn lớn. Hoạt động sản xuất kinh doanh ở một số ngành, lĩnh vực có xu hướng suy giảm; số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng; nhiều doanh nghiệp phải giảm nhân công, giảm giờ làm, cho người lao động nghỉ việc; đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. Giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu.

Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới, đăng ký bổ sung hoặc góp vốn, mua cổ phần giảm. Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước có dấu hiệu suy giảm; nợ xấu ngân hàng, nợ thuế nhà nước có xu hướng tăng; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh mạng, trật tự, an toàn xã hội, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân,… hiện vẫn là những vấn đề lớn có nhiều khó khăn, thách thức cần khắc phục.

Việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ vẫn là khâu yếu; kỷ luật, kỷ cương ở nhiều nơi chưa nghiêm, thậm chí còn có hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; cái gì có lợi thì kéo về cho cơ quan, đơn vị và cá nhân mình; cái gì khó khăn thì đùn đẩy ra xã hội, cho cơ quan khác, người khác.

Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chúng ta nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Tình hình trên đây đòi hỏi chúng ta tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn, quá say sưa với những kết quả, thành tích đã đạt được, và cũng không quá bi quan, dao động trước những khó khăn, thách thức; mà trái lại, cần phải hết sức bình tĩnh, sáng suốt, phát huy thật tốt những kết quả, bài học kinh nghiệm đã có, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, nhất là từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, để tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, nỗ lực phấn đấu, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức, triển khai thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho nhiệm kỳ khóa XIII và đến năm 2030.

Đặc biệt là, cần phải tiếp tục quán triệt, vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm Đại hội XIII của Đảng đã đúc kết được.

Đó là:

(1) Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

(2) Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

(3) Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực; có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.

(4) Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới; kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với Nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội…

Thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hóa, của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.

(5) Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được chủ quan, không để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.

Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng theo đúng tinh thần là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ.

Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Xác định những bài học kinh nghiệm đó là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp chúng ta kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua những khó khăn, thách thức mới và nhiệm vụ nặng nề hơn khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.

Đồng thời, cần tiếp tục quán triệt, vận dụng thật tốt một số bài học kinh nghiệm về việc đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm việc được rút ra tại Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII:

Một là, phải luôn luôn nắm vững và nghiêm túc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Quy chế làm việc và chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước.

Thực hiện thật tốt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; đoàn kết thống nhất; kiên định, nhất quán, giữ vững nguyên tắc trước những vấn đề khó khăn, thách thức mới.

Đối với những vấn đề lớn, khó, phức tạp, hệ trọng, cấp bách, nhạy cảm, chưa có tiền lệ, còn có nhiều ý kiến khác nhau, thì cần phải đưa ra họp bàn, thảo luận một cách dân chủ, thẳng thắn; cân nhắc cẩn trọng, kỹ lưỡng để có những quyết định kịp thời, đúng đắn và phù hợp với tình hình.

Hai là, phải bám sát Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để xây dựng và thực hiện cho bằng được chương trình công tác hằng năm, hằng quý, hằng tháng, hằng tuần theo đúng kế hoạch; đồng thời nhạy bén, linh hoạt, kịp thời điều chỉnh, bổ sung vào chương trình công tác những công việc hệ trọng, phức tạp, mới phát sinh trên các lĩnh vực để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả toàn diện mọi hoạt động trong đời sống xã hội.

Cần tiếp tục phát huy điểm mới trong nhiệm kỳ XIII, đó là: Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo tổ chức nhiều hội nghị cán bộ toàn quốc (trực tiếp, trực tuyến) để triển khai, quán triệt nhanh, đồng bộ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị toàn diện ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, các địa bàn, theo cả chiều dọc và chiều ngang; thống nhất từ Trung ương đến địa phương và giữa các địa phương trong các vùng, miền.

Định kỳ hàng tháng hoặc khi cần thiết, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt đều họp để nắm bắt toàn diện, cụ thể, thực chất tình hình; trao đổi, bàn bạc, thống nhất quan điểm, chủ trương, định hướng chỉ đạo những vấn đề lớn, hệ trọng, cấp bách của Đảng, của đất nước; đôn đốc, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nhằm đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả công việc đã đề ra.

Sau mỗi cuộc họp đều ban hành kết luận chỉ đạo, phân công rõ trách nhiệm thực hiện đối với từng vấn đề; góp phần quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhất quán, thống nhất, kịp thời, chặt chẽ, đồng bộ, thông suốt, đặc biệt là trong bối cảnh phải phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và xử lý các tình huống phức tạp vừa qua; khắc phục những sự chồng lấn, trùng lắp trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; tạo sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong các đồng chí lãnh đạo chủ chốt; tạo sự lan tỏa đến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và cả hệ thống chính trị.

Ba là, tập trung ưu tiên ban hành đồng bộ và có chất lượng hệ thống pháp luật, các quy định, quy chế, quy trình công tác để thực hiện nghiêm túc, thống nhất trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, sự vào cuộc với quyết tâm cao, nỗ lực lớn của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết nhất trí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân theo đúng tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.

Bốn là, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải chấp hành nghiêm túc các quy chế, chế độ công tác; hoạt động trên cơ sở Quy chế làm việc, Chương trình công tác toàn khóa và hằng năm.

Chuẩn bị kỹ nội dung, chương trình các cuộc họp; sắp xếp nội dung một cách khoa học, bài bản; thời gian tương đối hợp lý; mỗi phiên họp giải quyết được nhiều vấn đề; phát huy trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân, thảo luận dân chủ, cẩn trọng, kỹ lưỡng; văn bản hóa nhanh, kịp thời các kết luận của phiên họp.

Việc phân công, phân cấp trong giải quyết công việc giữa Bộ Chính trị và Ban Bí thư, giữa tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cá nhân các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phụ trách từng lĩnh vực và quan hệ lãnh đạo giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với các Đảng đoàn, Ban cán sự đảng, cấp ủy trực thuộc Trung ương cũng phải rõ ràng, cụ thể.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư giải quyết công việc theo đúng thẩm quyền; báo cáo kịp thời, đầy đủ với Ban Chấp hành Trung ương Đảng những vấn đề quan trọng trước khi quyết định và những công việc Bộ Chính trị đã giải quyết giữa hai kỳ hội nghị Trung ương.

Năm là, từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần phát huy cao độ tinh thần nêu gương, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng; nghiêm túc tự soi, tự sửa, tự phê bình và phê bình; giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tự giác nhận trách nhiệm chính trị lĩnh vực mình phụ trách; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác; giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; tư tưởng, chính trị vững vàng, quan điểm đúng đắn; gương mẫu về đạo đức, lối sống trong công tác, trong cuộc sống của bản thân, gia đình và người thân. Hết sức tránh tình trạng “Chân mình còn lấm bê bê; Lại cầm bó đuốc đi rê chân người!”.

Trên cơ sở đó, tập trung ưu tiên triển khai thực hiện thật tốt những nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

Thứ nhất, về phát triển kinh tế: Cần tiếp tục quán triệt thật sâu sắc, tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước về phát triển nhanh và bền vững.

Chú trọng củng cố, tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế trên cơ sở lành mạnh hóa, giữ vững sự phát triển ổn định, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp.

Tập trung ưu tiên cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; giải quyết có hiệu quả những khó khăn, hạn chế, yếu kém, cả trước mắt lẫn lâu dài của nền kinh tế để giữ vững đà phục hồi, tăng trưởng nhanh và bền vững, thực chất hơn; tạo chuyển biến mạnh hơn trong việc thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… gắn với tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Thứ hai, về phát triển văn hóa, xã hội: Cần quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, hài hòa và ngang tầm với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ người dân, người lao động mất việc làm và doanh nghiệp gặp khó khăn. Chăm lo đời sống người có công với cách mạng, người có hoàn cảnh khó khăn; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa nông thôn, đô thị, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững; ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các chương trình, đề án, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác phòng, chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Nâng cao hiệu quả của các thiết chế văn hóa, nhất là ở các khu công nghiệp, khu đô thị mới; bảo tồn và phát huy các giá trị di sản, văn hóa tốt đẹp.

Xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh; ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống và quan tâm hơn nữa đến việc phòng, chống bạo lực gia đình, xâm hại trẻ em và tệ nạn xã hội.

Thứ ba, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Cần tiếp tục củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tích cực đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; thực hiện các giải pháp bảo đảm an ninh mạng, an toàn giao thông, phòng, chống cháy, nổ.

Tổ chức thật tốt các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao; chủ động, tích cực, làm sâu sắc, thực chất hơn nữa quan hệ với các đối tác; đẩy mạnh đối ngoại đa phương; giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết. Triển khai thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký kết, tranh thủ tối đa lợi ích mà các hiệp định này có thể đem lại.

Thứ tư, về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Cần tiếp tục đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp từ Trung ương đến địa phương.

Xây dựng Chính phủ, chính quyền các địa phương thật sự trong sạch, liêm chính, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cụ thể là, phải có chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, ráo riết, có kết quả cụ thể các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ để lựa chọn, bố trí đúng những người thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết; thật sự vì nước, vì dân vào các vị trí lãnh đạo của bộ máy nhà nước.

Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những người sa vào tham nhũng, hư hỏng; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái tuyển dụng người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn.

Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương; tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ những người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Siết chặt kỷ luật, kỷ cương; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức.

Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn tham nhũng”.

Thứ năm, về chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng: Các Tiểu ban chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng cần khẩn trương, nghiêm túc chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương và các cấp ủy, chính quyền các địa phương tiến hành tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới, tập trung vào 10 năm gần đây; xây dựng có chất lượng dự thảo các văn kiện trình đại hội đảng bộ các cấp và tham gia góp ý hoàn thiện dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; làm tốt hơn nữa công tác xây dựng quy hoạch và công tác cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt là công tác quy hoạch và công tác cán bộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV, nhiệm kỳ 2026-2031; chuẩn bị và tiến hành thật tốt đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng.

Tự hào, tin tưởng vào Đảng quang vinh qua 30 năm kể từ ngày thành lập, nhà thơ Tố Hữu, nhà thơ cách mạng nổi tiếng của chúng ta đã có tác phẩm bất hủ “30 năm đời ta có Đảng”, trong đó có đoạn viết:

“Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt

Đảng ta đây, xương sắt da đồng

Đảng ta, muôn vạn công nông

Đảng ta, chung một tấm lòng niềm tin”

Niềm tự hào, niềm tin đó của nhân dân ta đối với Đảng từng bước được vun đắp, nâng cao, ngày càng bền chặt hơn qua suốt chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng từ năm 1930 đến nay với những kết quả, thành tựu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã nỗ lực phấn đấu đạt được trong đấu tranh cách mạng giành chính quyền; kháng chiến kiến quốc; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội; và trong tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; góp phần làm cho đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Tiếp tục trên chặng đường vinh quang dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vô cùng yêu dấu của chúng ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, Đảng ta, đất nước ta và dân tộc ta sẽ tiếp tục hướng tới năm 2030, kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng, nước ta trở thành nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng đất nước Việt Nam ta ngày càng “cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại và dân tộc Việt Nam anh hùng; tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cách mạng chân chính và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


  • -

HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CÔNG TÁC NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2024

Sáng ngày 12/01/2024 tại Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 (Trung tâm Kỹ thuật 2) số 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, Trung tâm Kỹ thuật 2) đã tổ chức hội nghị cán bộ công chức, viên chức và người lao động năm 2023 và đưa ra phương hướng, nhiệm vụ năm 2024.

Đến dự hội nghị có ông Hà Minh Hiệp – Bí thư Đảng ủy Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục và Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Tổng cục: Vụ Đo lường, Vụ Tiêu chuẩn; Vụ Đánh giá Hợp chuẩn và hợp quy; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Kế hoạch – Tài chính; Văn phòng Tổng cục; Viện Đo lường Việt Nam, cùng với Ban Lãnh đạo và gần 200 viên chức, người lao động của Trung tâm Kỹ thuật 2 tham dự.

Toàn cảnh Hội nghị

Sau khi Hội nghị xem phim về báo cáo kết quả hoạt động nổi bậc năm 2023, ông Nguyễn Phú Quốc – Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật 2 nêu và phân tích một số thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp dịch vụ của Trung tâm: Chiến tranh Nga – Ucraina, suy thoái kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng; cạnh tranh khốc liệt trong ngành,… Tuy nhiên, với sự đoàn kết, thống nhất cao trong tập thể Lãnh đạo và toàn thể viên chức, người lao động của Trung tâm Kỹ thuật 2 vượt qua khó khăn hoàn thành 102% kế hoạch Tổng cục giao.

Ông Nguyễn Phú Quốc trình bày báo cáo tại Hội nghị

Cũng tại Hội nghị này, ông Nguyễn Phú Quốc thay mặt Lãnh đạo Trung tâm trình bày “Phương hướng, nhiệm vụ năm 2024 của Trung tâm Kỹ thuật 2”, trong đó nhấn mạnh 10 nhiệm vụ trọng tâm:

– Tham gia và phối hợp thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Tổng cục, phấn đấu hoàn thành vượt kế hoạch được giao;

– Kiện toàn cơ cấu tổ chức, điều lệ hoạt động và hoàn thành xây dựng VTVL; đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;

– Đẩy mạnh số hoá và chuyển đổi số;

– Hoàn thành 100% các dự án trung hạn;

– Nghiên cứu cải tiến Quy chế chi tiêu nội bộ;

– Tập trung hoàn thành các nhiệm vụ Khoa học Công nghệ;

– Mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ và khai thác có hiệu quả các nguồn lực được đầu tư;

– Tập trung hỗ trợ Trung tâm Kỹ thuật Tây nguyên;

– Xây dựng tốt mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong Trung tâm, giữa Trung tâm với các đơn vị trong Tổng cục và khách hàng, đối tác, cơ quan Quản lý Nhà nước,…

– Tiếp tục thực hiện 5S; xây dựng hình ảnh, văn hoá QUATEST 2.

Hội nghị cũng nhận được báo cáo tham luận liên quan đến hoạt động quản lý; các đề xuất, kiến nghị của đại diện Trung tâm Kỹ thuật Tây Nguyên (CTC), Khối Đo lường, Thử nghiệm đến Lãnh đạo Trung tâm, Lãnh đạo Tổng cục nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý và cung cấp dịch vụ của Đơn vị.

Ông Nguyễn Hữu Trung – Phó Giám đốc Trung tâm trình bày tham luận về “Một số giải pháp nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Trung tâm Kỹ thuật TCĐLCL 4 giai đoạn 2024-2025, tầm nhìn đến năm 2030”

Ông Tạ Ngọc Tú – Phó Giám đốc Trung tâm trình bày tham luận về “Định hướng mở rộng hoạt động Đo lường, Nghiệp vụ trong năm 2024”

Ông Đặng Tuấn Kiệt – Trưởng phòng Kỹ thuật 8, trình bày tham luận về “Hiệu quả sau khi sắp xếp lại chức năng nhiệm vụ của các Phòng thử nghiệm”

Bên cạnh đó, Hội nghị nhận được các ý kiến trao đổi, chia sẻ, chỉ đạo của Lãnh đạo các Vụ về công tác: Tổ chức, Tài chính, Đo lường, Đánh giá sự phù hợp, … và mong muốn hỗ trợ hơn nữa cho Trung tâm trong thời gian đến.

Bà Trần Thị Tuyết – Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ

Bà Nguyễn Thị Tuyết Lan – Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính

Ông Trần Quý Giầu – Vụ trưởng Vụ Đo lường

Bà Nguyễn Thị Mai Hương – Vụ trưởng Vụ Đánh giá Hợp chuẩn và hợp quy

Ông Phạm Lê Cường – Phó Chánh Văn phòng Tổng cục

Ông Nguyễn Văn Khôi – Vụ trưởng Vụ Tiêu chuẩn

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Ông Hà Minh Hiệp – Bí thư Đảng ủy Tổng cục, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục đã đánh giá cao sự nỗ lực của tập thể Lãnh đạo, viên chức và người lao động Trung tâm Kỹ thuật 2 trong năm 2023 và chỉ đạo một số nội dung:

– Các đồng chí Đảng viên cần tích cực nâng cao tinh thần nêu gương về đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị, … cho toàn thể viên chức, người lao động của Trung tâm.

– Trung tâm Kỹ thuật 2 tiếp tục phát huy các buổi học tập, trao đổi thông tin, tập trung phát triển nguồn lực, đặc biệt là tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức, tư tưởng, lập trường cho Đảng viên và quần chúng, chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh) cho viên chức, người lao động.

– Tập trung học tập, trao đổi, cầu thị những vấn đề mới, tăng cường cập nhật, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số.

– Quan tâm triển khai công tác 5S tại đơn vị, hướng đến xây dựng được ý thức tự giác của viên chức, người lao động.

– Đảng ủy, BGĐ Trung tâm tiếp tục quan tâm và nâng cao thu nhập cho VC-NLĐ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, Đoàn Thanh niên phát triển.

Ông Hà Minh Hiệp – Bí thư Đảng ủy Tổng cục, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục

Ông Nguyễn Phú Quốc – Giám đốc Trung tâm Kỹ thuât 2 cảm ơn và ghi nhận ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Tổng cục và bổ sung vào phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch năm 2024 của Đơn vị.

Đại diện đoàn công tác Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tặng quà lưu niệm cho Trung tâm Kỹ thuật 2

Tác giả: Nguyễn Hồng Hạnh (Phòng TT&DVKH)

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2

🏢 Địa chỉ: 97 Lý Thái Tổ, quận Thanh Khê, tp Đà Nẵng, 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, tp Đà Nẵng & Khối 8, P. Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

☎ Điện thoại: (0236) 2621068

🌏 Website: www.quatest2.gov.vn


  • -

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 tổng vệ sinh và thực hành 5S

Hưởng ứng phong trào Tổng vệ sinh và thực hành 5S của Trung tâm Kỹ thuật 2. Sáng ngày 06/01/2024, toàn thể VC – NLĐ các đơn vị trong Trung tâm đã tích cực tham gia vệ sinh sạch sẽ các khu vực được giao.

Các đơn vị được phân công cùng nhau thực hiện Tổng vệ sinh các Khu vực sử dụng chung như: Khu vực khuôn viên, hành làng, lối đi, khu vực nhà xe, hội trường,..

Dưới đây là một số hình ảnh Tổng vệ sinh và Thực hành 5S của VC-NLĐ của Trung tâm Kỹ thuật 2:

Chương trình Tổng vệ sinh và Thực hành 5S diễn ra trong không khí vui vẻ, hăng say, VC-NLĐ nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ tại khu vực được phân công. Sau kiểm tra đánh giá, Tổ triển khai 5S đã ghi nhận và đánh giá cao ý thức trách nhiệm của toàn thể VC-NLĐ Trung tâm Kỹ thuật 2 nói chung, khuyến khích các đơn vị thường xuyên thực hiện 5S để duy trì môi trường làm việc XANH – SẠCH – ĐẸP.

Tác giả: Nguyễn Lê Anh Tùng (Phòng TT&DVKH) 

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2

🏢 Địa chỉ: 97 Lý Thái Tổ, quận Thanh Khê, tp Đà Nẵng, 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, tp Đà Nẵng & Khối 8, P. Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

☎ Điện thoại: (0236) 2621068

🌏 Website: www.quatest2.gov.vn

 


  • -

THÔNG BÁO TUYỂN DỤNG NHÂN SỰ THÁNG 12/2023

Hiện nay, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 đang có nhu cầu tuyển dụng với vị trí như sau:

1. Vị trí tuyển dụng:

– Nhân viên Thử nghiệm lĩnh vực Xăng, dầu, khí và Hóa vật liệu;

– Nhân viên Thử nghiệm lĩnh vực Điện, điện tử và Hiệu suất năng lượng;

– Nhân viên Thử nghiệm lĩnh vực Hóa lý;

– Nhân viên Kiểm định an toàn;

– Nhân viên Hỗ trợ Thử nghiệm lĩnh vực Sinh học (thời vụ 03 tháng).

(Chi tiết theo hình ảnh đính kèm bài viết).

Zalo
Zalo
Zalo

2. Địa điểm làm việc: Tại Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2, Số 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

3. Yêu cầu hồ sơ (01 bộ hồ sơ bằng bản cứng), gồm:

– Đơn xin việc (viết bằng tay);

– Sơ yếu lý lịch có xác nhận của chính quyền địa phương nơi đăng ký hộ khẩu;

– Giấy chứng nhận sức khỏe có thời hạn trong vòng 6 tháng kể từ ngày nhận hồ sơ (theo Mẫu quy định tại Thông tư số 14/2013/TT-BYT ngày 06/5/2013 của Bộ Y tế);

– Các văn bằng chứng chỉ, bảng điểm kết quả học tập (Sao y chứng thực);

– Sổ Hộ khẩu, CMND/CCCD (Sao y chứng thực).

4. Hồ sơ gửi về Phòng Hành chính – Tổ chức, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 – Số 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng trước ngày 25/12/2023.

Mọi chi tiết xin liên hệ với chị Phạm Thị Nhung, Nhân viên Phòng Hành chính – Tổ chức, SĐT: 0935 595 699.

Lưu ý:

– Hồ sơ không đạt yêu cầu sẽ không liên hệ phỏng vấn; Không trả lại hồ sơ;

– Thông báo này được đăng tải trên Website: www.quatest2.gov.vn/tuyen-dung/.

Trân trọng./.

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2

🏢 Địa chỉ: 97 Lý Thái Tổ, quận Thanh Khê, tp Đà Nẵng, 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, tp Đà Nẵng & Khối 8, P. Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

☎ Điện thoại: (0236) 2621068

🌏 Website: www.quatest2.gov.vn


  • -

VAI TRÒ CỦA ĐO LƯỜNG TRONG THỜI ĐẠI 4.0

Nguyễn Phú Quốc – Giám đốc QUATEST 2 

Đo lường luôn là ngành khoa học quan trọng trong các ngành khoa học, đặc biệt là khoa học kỹ thuật. “Bạn chỉ có thể sản xuất tốt những gì bạn có thể đo lường,” như câu nói nổi tiếng của Ngài Joseph Whitworth. Với việc đo lường tiến tới mức độ chính xác lượng tử và sự ra đời của Công nghiệp 4.0 và Internet vạn vật (IoT), đo lường sẽ đi về đâu?

Forbes định nghĩa cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là lấy “những gì đã bắt đầu ở cuộc cách mạng thứ ba với việc áp dụng máy tính và tự động hóa, đồng thời nâng cao nó bằng các hệ thống thông minh và tự động được thúc đẩy bởi dữ liệu và máy học”.

Trong thời đại công nghiệp 4.0, đo lường đóng vai trò thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển khoa học công nghệ, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, vật tư, năng lượng, bảo đảm an toàn sản xuất, bảo vệ sức khỏe và môi trường. Do đó, trang thiết bị đo lường ngày nay không chỉ đơn thuần phục vụ hoạt động đo đếm thông thường, mà còn tích hợp nhiều chức năng như truyền tín hiệu từ xa, đồng bộ với hệ thống và các trang thiết bị khác, … để tối đa mục đích và hiệu quả hoạt động.

Trước đây, đo lường đã có vai trò lớn trong điều khiển và tự động hoá. Ngày nay, đo lường còn đóng vai trò định lượng nhiều vấn đề mà cuộc sống yêu cầu như định lượng về thời gian làm việc, năng suất lao động, nhiên, nguyên liệu, vật tư tiêu hao, sản lượng, chất lượng, … , nhất là khi dữ liệu đang được đánh giá là nguồn tài nguyên cực kỳ quan trọng trong tương lai gần.

Bên cạnh đó, đo lường trong thời đại 4.0 còn đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu, thiết kế triển khai và là cầu nối cho sản xuất thông minh. Các nhà xưởng đang ngày càng được xây dựng theo hướng thông minh và hiệu quả với thiết kế và sản xuất được tích hợp vào dây chuyền sản xuất tối ưu, cung cấp sản phẩm theo các yêu cầu của thời gian thực. Một trong những lợi ích chính của tự động hóa đo lường trong sản xuất thông minh là khả năng thu thập và phân tích dữ liệu theo thời gian thực. Với hệ thống đo lường tự động, nhà sản xuất có thể giám sát và điều chỉnh quy trình sản xuất theo thời gian thực để đảm bảo sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng.

Trong sản xuất công nghiệp, đo lường được sử dụng để cung cấp khả năng truy xuất nguồn gốc, độ chính xác và tính nhất quán của thiết bị đo lường trên toàn thế giới. Nó giúp cung cấp giá trị và ngăn ngừa sự khác biệt giữa các kết quả đo. Đo lường đặt ra khuôn khổ cho các phép đo đáng tin cậy và nhất quán theo thời gian và không gian. Đo lường giúp thúc đẩy việc cải tiến phương pháp và phương tiện đo lường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin khoa học và kỹ thuật, việc tiêu chuẩn hóa quốc tế các sản phẩm nói chung, máy móc, thiết bị và dụng cụ, phương tiện đo lường. Hoạt động đo lường sẽ cho phép chúng ta đạt được điều này bằng cách đánh giá sự phù hợp, hiệu suất và tính năng của mỗi bộ phận của sản phẩm cuối cùng. Nó sẽ nối kết nghiên cứu và phát triển với sản xuất thông qua một quá trình duy nhất có mức tiêu thụ năng lượng thấp và giảm tác động môi trường, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm và tối ưu hóa quy trình sản xuất. Để làm được điều này, ví dụ như các thiết bị đo thông minh được kết nối với môi trường hoạt động của chúng với thời gian thực thông qua việc sử dụng các cảm biến, điều khiển các thông số đo lường như nhiệt độ và áp suất, thông số, dữ liệu đo được tích hợp qua mạng thông tin toàn cầu liên tục, đo và hiệu chỉnh liên tục, … thực hiện điều này có thể thông qua các công nghệ tiên tiến, phần mềm và công nghệ thông tin cùng với sự phát triển của lượng tử mới, cảm biến sinh học và công nghệ nano.

Hệ thống đo lường thông minh (Đo lường 4.0) sẽ kết nối một số lượng lớn các cảm biến khác nhau, tích hợp dữ liệu từ các hệ thống khác nhau vào một mạng đo lường thông minh, đảm bảo hiệu chuẩn được duy trì liên tục.

Đo lường cũng đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Việc có sự kiểm soát về đo lường sẽ làm giảm bớt bất kỳ lợi thế thương mại hoặc hoạt động thương mại không công bằng nào. Điều này đảm bảo rằng các dụng cụ, phương tiện đo lường thương mại phù hợp với mục đích sử dụng và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Không những thế, các hoạt động về đo lường cũng đang thay đổi hàng ngày. Ngoài việc thay đổi cả về định nghĩa đơn vị đo, thay đổi về độ không đảm bảo đo (càng ngày càng tốt hơn lên), còn sử dụng các phương tiện đo lường không tiếp xúc, chứng chỉ hiệu chuẩn số (Digital Calibration Certificate – DCC). Chứng chỉ hiệu chuẩn kỹ thuật số cung cấp thông tin kỹ thuật ở dạng máy có thể đọc được – một lợi thế khác biệt cho quy trình sản xuất và giám sát chất lượng.

Các tổ chứng đo lường lớn trên thế giới ngày nay đã và đang cùng nhau đưa các chứng chỉ có thể đọc được bằng máy và biểu tượng công nhận kỹ thuật số vào thực tế (như DakkS, PTB, …).

Các sản phẩm xuất sắc dựa trên một hệ thống phức tạp để đảm bảo chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng (được gọi là “hạ tầng chất lượng” – QI). Để đảm bảo chất lượng này được giữ nguyên giá trị trong thế giới kỹ thuật số, các công cụ cần thiết, ví dụ như chứng chỉ hiệu chuẩn, phải trở thành kỹ thuật số. Chứng chỉ hiệu chuẩn kỹ thuật số (DCC) có thể đọc được bằng máy nhằm phục vụ các bên liên quan muốn hỗ trợ nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi số và các tổ chức đo lường quốc tế đang nỗ lực phát triển các tiêu chuẩn thống nhất trên toàn thế giới trong lĩnh vực này.

Trong quá trình xây dựng và triển khai NQI (hạ tầng chất lượng quốc gia), một trong những mục tiêu đặt ra là cùng phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng hiện đại, đáp ứng nhu cầu về chuỗi giá trị tự động và liên kết với nhau và làm giảm chi phí. Báo cáo kết quả dạng kỹ thuật số và máy có thể đọc được, chẳng hạn như chứng chỉ hiệu chuẩn, là một thành phần quan trọng của việc này.

Với vai trò của Đo lường quan trọng như vậy, trong thời đại CN 4.0, đòi hỏi các cơ quan quản lý đến người tiêu dùng, các tổ chức cung cấp dịch vụ đo lường và các cơ sở sử dụng phương tiện đo, sử dụng dịch vụ phải hướng đến số hoá và chuyển đổi số mạnh mẽ và toàn diện. Chúng ta cần hướng đến việc cấp các kết quả đo lường dạng điện tử, hướng tới chứng chỉ số.

Do vậy, cần xác định các thách thức đối với đo lường ngày nay:

Trong thời đại Công nghiệp 4.0, hệ thống đo lường cũng cần phải cạnh tranh để nâng cấp, chuyển từ trạng thái hiện tại sang trạng thái mới nhất và nhanh nhất, duy trì các quy trình sản xuất cần thiết. Do đó cách vượt qua các thách thức sau:

(a) Đo lường trong quá trình cho CN 4.0 là một khái niệm dựa trên dữ liệu và quy trình hiện đại. Các công nghệ đo lường liên quan đến ý tưởng này là những công cụ mới nhất và chính xác nhất. Các kỹ năng cần thiết cho việc điều hành, phân tích và ra quyết định khi can thiệp của con người muốn trải qua nguồn lao động chuyên môn. Chi phí liên quan đến việc thuê nhiều người quan sát được giảm bớt trong khái niệm đo lường tự động mặc dù việc bảo trì làm tăng chi phí ở mức cao. Trong trường hợp này, năng lực sản xuất thấp không thể thay thế chi phí cho việc đo lường trong quá trình với các tiêu chuẩn CN 4.0.

(b) Các công ty luôn cạnh tranh vì lợi nhuận và sản xuất. Họ mong muốn tiếp cận ngày càng nhiều khách hàng và mở rộng phạm vi kinh doanh. Điều đó tạo nên khoảng cách giữa các công ty trong việc tích hợp đo lường. Ngày xưa là thời đại của sự phân chia và cạnh tranh về mặt vật lý mà giờ đây đang được chuyển đổi thành khoảng cách kỹ thuật số về tính toàn vẹn, bảo mật, kết nối. Việc che giấu bằng sáng chế và giá trị của sản phẩm đã cản trở chủ doanh nghiệp chia sẻ ngân hàng dữ liệu giữa các công ty trừ khi chính phủ cưỡng chế thực hiện điều đó. Các công ty hầu như không tích cực tạo thành một nguồn dữ liệu duy nhất cung cấp tất cả thông tin cho hoạt động sản xuất, lập kế hoạch, tìm nguồn cung ứng và kiểm tra. Mỗi công ty coi việc bảo vệ tài sản trí tuệ của mình, duy trì giao thức thống kê và coi thông tin từ một nguồn khác là một phần tử của luồng kỹ thuật số. Mối quan hệ đối tác thắt chặt có khả năng phù hợp để khắc phục những trường hợp này miễn là họ đạt được lợi ích của mình. Cơ quan quản lý với một số mục tiêu chung có thể sử dụng cơ chế, chính sách nhằm loại bỏ những nguyên nhân mà trên đó tất cả các công ty và tổ chức có thể cùng nhau chia sẻ tất cả dữ liệu.

(c) Chuyên môn và trọng tâm của các cơ quan khác nhau dựa trên địa điểm, luật pháp, luật lao động, giao thức, v.v. cũng làm giảm khả năng kết nối của CN 4.0. Một vấn đề quan trọng đối với dữ liệu số để chia sẻ là bản chất của định dạng dữ liệu và tệp. Trong quá trình xử lý, phần mềm đo lường hỗ trợ trực tiếp, đọc và ghi tệp vào ngân hàng dữ liệu và lấy lại nguồn khi muốn. Việc kết nối giữa các nguồn dữ liệu, định dạng dữ liệu, phiên bản máy và đầu dò, ngôn ngữ và các đơn vị là một trở ngại lớn. Phần mềm lỗi thời, khả năng tương thích, ngôn ngữ và thiết bị có thể gây ra một vấn đề quan trọng trong việc đồng bộ hóa mà ngay cả ngày nay cũng không dễ giải quyết.

(d) Nhà sản xuất hướng tới sự hài lòng của con người để kiếm lợi nhuận. Sự hài lòng và hấp dẫn của con người là những vấn đề phức tạp và là vấn đề cần nghiên cứu và phân tích quy mô lớn. Văn hóa, tôn giáo, địa điểm, thời tiết, … là những dấu hiệu cho thấy sự hài lòng của con người. Quả thật, CN 4.0 có cơ hội xây dựng khả năng kết nối để có được sản phẩm lý tưởng cho từng khách hàng. Tuy nhiên, từ góc độ đo lường, việc thực hiện không hề dễ dàng. Các phép đo trong quá trình cũng phải chịu đựng điều tương tự để làm hài lòng con người.

(e) Mặc dù chúng ta đang nói về đo lường trong quá trình được tự động hóa hoàn toàn trong CN 4.0 nhưng vẫn cần có sự tham gia của con người. Việc giảm số lượng người quan sát có thể gây ra sự tàn phá không chỉ đối với một công ty mà còn đối với một nhóm công ty vì ngân hàng dữ liệu được chia sẻ. Việc phân tích và tính toàn vẹn của dữ liệu dựa trên yêu cầu của con người và chuyển đổi chúng thành các thuật ngữ sản xuất luôn cần con người.

(f) Sự thay đổi nhanh chóng của các ngành công nghiệp từ quy trình sử dụng nhiều lao động truyền thống sang các bước hoàn toàn tự động hóa và số hóa khiến rất nhiều lao động mất việc làm. Điều này có thể dẫn tới tình trạng thất nghiệp và bất ổn xã hội. Nếu người lao động mất đi kỹ năng, hệ thống sẽ không thể đảo ngược khi quá trình số hóa đang diễn ra nhanh chóng. Những người thất nghiệp sẽ vướng vào những tệ nạn khi bản đồ nghề nghiệp và nhu cầu sẽ thay đổi. Mối lo ngại về nó và vấn đề lao động gia tăng sẽ không còn là vấn đề nếu có đủ phạm vi để đảm bảo tỷ lệ việc làm cho cộng đồng.

Tóm lại, những vấn đề ngắn gọn này đã tổng hợp các triển vọng và thách thức của đo lường trong quá trình áp dụng cho CN 4.0. Kỷ nguyên hiện nay của sản xuất thông minh chắc chắn sẽ thay thế các hệ thống sản xuất hiện có. Thành công bây giờ sẽ được tính vào việc các nhà hoạch định chính sách có thể thích ứng với sự thay đổi một cách thông minh đến mức nào. Khái niệm đo lường được tìm thấy qua nghiên cứu này đã đề cập rằng những thách thức và cơ hội gắn liền với nó rủi ro về mạng và quản lý dữ liệu lớn sẽ là một vấn đề then chốt.

Theo Aristotle, không có xúc giác thì sinh vật không thể tồn tại. Tương tự như vậy, nếu không có thước đo thì xã hội văn minh không thể tồn tại. Tốc độ phát triển đo lường và hiệu quả của ứng dụng đo lường có thể đặc trưng cho trình độ văn minh của mỗi quốc gia.

Cuộc cách mạng công nghiệp Công nghiệp 4.0 đòi hỏi những thay đổi về chất trong phát triển đo lường.

Trong số các lĩnh vực nghiên cứu ưu tiên liên quan đến những thay đổi này là tìm kiếm giải quyết các thách thức đo lường liên quan đến phép đo đại lượng đa chiều (trong hầu hết các trường hợp, chúng là phi vật lý), cung cấp độ tin cậy của kết quả đo cũng như bảo mật và tối ưu hóa luồng kết quả đo khi số lượng dụng cụ đo ngày càng tăng.

Bởi vì những thay đổi này là thực tế nên việc tổ chức xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế quy định các yêu cầu đặc biệt của Công nghiệp 4.0 đối với các phương pháp đo lường cũng như các dụng cụ và hệ thống đo lường là cần thiết.

Cuối cùng, chúng ta cần trả lời câu hỏi rằng: Vị trí của đo lường trong “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” như thế nào, liệu ngành CN 4.0 đang được thúc đẩy bởi sự phát triển trong đo lường hay sự phát triển của đo lường đang được thúc đẩy bởi CN 4.0./.

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2

🏢 Địa chỉ: 97 Lý Thái Tổ, quận Thanh Khê, tp Đà Nẵng, 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, tp Đà Nẵng & Khối 8, P. Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

☎ Điện thoại: (0236) 2621068

🌏 Website: www.quatest2.gov.vn

 

  • -

HỘI THẢO “QUẢN LÝ PTN VÀ ÁP DỤNG SI SỬA ĐỔI”

Ngày 24/11/2023, Hội Đo lường Việt Nam đã phối hợp với Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 (QUATEST 2) tổ chức Hội thảo với chủ đề “Quản lý Phòng thí nghiệm và Áp dụng SI sửa đổi” tại thành phố Đà Nẵng.

Thực hiện Chương trình hoạt động Hội Đo lường Việt Nam (ĐLVN) năm 2023, Hội ĐLVN đã phối hợp với Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 (QUATEST 2) tổ chức Hội thảo với chủ đề “Quản lý Phòng thí nghiệm và Áp dụng SI sửa đổi”. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 24/11/2023 tại Hội trường của QUATESTT 2, TP. Đà Nẵng.

Zalo
Zalo

Tới dự Hội thảo đại diện lãnh đạo các Tổ chức và Cơ quan: ông Vũ Khánh Xuân- Chủ tịch Hội Đo lường Việt Nam, ông Trần Quý Giầu- Vụ trưởng Vụ Đo lường Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, ông Tạ Ngọc Tú – Phó Giám đốc QUATEST 2. Dự Hội thảo gồm các Ủy viên BCH Hội nhiệm kỳ V và hơn 60 đại biểu đến từ các PTN thuộc các Tổ chức khu vực miền Trung đã đăng ký/ hoạc và đã được chỉ định kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo & chuẩn đo lường.

Zalo
Chủ tịch Hội ĐLVN – ông Vũ Khánh Xuân phát biểu khai mạc hội thảo

Hội thảo đã được cung cấp các tài liệu và nghe trình bày về các nội dung: Giới thiệu Hội Đo lường Việt Nam (tham luận của ông Bùi Quốc Thụ); Quản lý chuẩn đo lường và phương tiện đo trong hoạt động hiệu chuẩn, kiểm định (tham luận của ông Dương Quốc Thao); So sánh liên phòng về đo lường (tham luận của ông Trần Quý Giầu); Hướng dẫn áp dụng Hệ đơn vị quốc tế SI sửa đổi (tham luận của ông Trần Bảo) và Áp dụng chuyển đổi số (tham luận của ông Tạ Ngọc Tú).

Zalo
TS Bùi Quốc Thụ báo cáo tại hội thảo
Zalo
Phó CT, Tổng thư ký Hội ĐLVN – ông Dương Quốc Thao báo cáo tại hội thảo
Zalo
Ông Trần Quý Giầu- Vụ trưởng Vụ Đo lường Tổng cục TCĐLCL trình bày báo cáo
Zalo
TS Trần Bảo báo cáo chuyên đề tại hội thảo
Zalo
Ông Tạ Ngọc Tú – Phó Giám đốc QUATEST 2 trình bày tham luận

Thông qua Hội thảo các đại biểu đến từ các PTN đã đánh giá rất cao về các nội dung của các tham luận rất thực tế và nâng cao sự hiểu biết để triển khai áp dụng trong các PTN.

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2

🏢 Địa chỉ: 97 Lý Thái Tổ, quận Thanh Khê, tp Đà Nẵng, 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, tp Đà Nẵng & Khối 8, P. Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

☎ Điện thoại: (0236) 2621068

🌏 Website: www.quatest2.gov.vn


  • -

QUATEST 2 ĐÓN ĐOÀN CHUYÊN GIA NĂNG SUẤT XANH APO ĐẾN THĂM VÀ LÀM VIỆC TẠI TRUNG TÂM

Công nghiệp hóa là con đường hướng tới phát triển kinh tế vì nó tạo ra việc làm, tăng xuất khẩu và nâng cao chất lượng cuộc sống.  Các nền kinh tế mới tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang trải qua quá trình công nghiệp hóa nhưng vẫn chưa thực sự gặt hái được những kết quả phát triển thịnh vượng về mặt kinh tế. Trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với những thách thức chưa từng có bao gồm biến đổi khí hậu, lượng khí thải carbon cao, ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, các doanh nghiệp cần có những giải pháp phù hợp hướng tới sự phát triển bền vững.

Tổ chức Năng suất châu Á (APO) đã phát triển ý tưởng Năng suất xanh (GP) để đảm bảo rằng việc tăng năng suất, chất lượng và lợi nhuận cũng cải thiện phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Để xây dựng một nhóm chuyên gia GP được công nhận tại các nền kinh tế thành viên, APO đã triển khai Chương trình chứng nhận và tiêu chuẩn năng lực dành cho Chuyên gia GP (gọi tắt là APO-GPS 201). Khóa đào tạo này là điều kiện tiên quyết để các ứng viên trở thành Chuyên gia GP được chứng nhận và GP cũng là một trong những chương trình hàng đầu được APO cung cấp cho các thành viên của mình. 

Năm 2023 APO đã cùng với Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (STAMEQ) phối hợp tổ chức khóa đào tạo về GP từ ngày 30/10 đến ngày 10/11/2023 tại thành phố biển Đà Nẵng xinh đẹp. Khóa đào tạo được hướng dẫn, giảng dạy bởi các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực GP của APO (Ông Alex Yap Yun Fung, Malaysia và ông Kelvin Chan Keng Chuen, Singapore) cùng với học viên là 24 đại biểu đến từ 16 nền kinh tế thành viên.

Khoá học không chỉ tập trung vào cung cấp lý thuyết liên quan đến chủ đề GP mà còn tạo điều kiện để các học viên thực hành thực tế tại cơ quan, tổ chức đang hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Theo đó, các chuyên gia APO đã lựa chọn Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 (QUATEST 2) là đơn vị để các học viên khoá học thực hành khảo sát, đánh giá về nhận thức và áp dụng GP nhằm giúp cho các học viên vận dụng kiến thức và kỹ năng tích lũy được trong khóa đào tạo vào môi trường thực tế, đồng thời đưa ra các đề xuất, kiến nghị cải tiến phù hợp cho đơn vị.

Một số hình ảnh về quá trình khảo sát, đánh giá của đoàn chuyên gia APO tại QUATEST 2:

QUATEST 2 chào mừng đoàn chuyên gia APO đến thăm và làm việc tại Trung tâm

Chuyên gia APO có buổi làm việc sơ bộ ngày 01/11/2023 với Lãnh đạo QUATEST 2

Chuyên gia APO và Vụ Hợp tác quốc tế – Tổng cục TCĐLCL cùng Ban Giám đốc và nhân viên QUATEST 2

Ông Kevin Chan Keng Chuen – đại diện tổ chức APO phát biểu tại buổi khảo sát, đánh giá ngày 07/11/2023

 

Đại diện Lãnh đạo QUATEST 2 giải đáp các thắc mắc, câu hỏi từ đoàn chuyên gia APO

Nhóm chuyên gia thực hiện phỏng vấn Trưởng phòng Phòng Kỹ thuật 5 và Trưởng phòng Phòng Kỹ thuật 8

Nhóm chuyên gia thực hiện phỏng vấn Trưởng phòng Phòng Kỹ thuật 1 và Trưởng phòng Phòng Kỹ thuật 7

Các chuyên gia APO thực hiện khảo sát, đánh giá thực tế tại các PTN của QUATEST 2

Các chuyên gia thực hiện khảo sát nhận thức về Năng suất xanh của viên chức, người lao động QUATEST 2

Sau khi kết thúc buổi khảo sát, các chuyên gia APO cùng với các học viên đã xây dựng và cung cấp cho QUATEST 2 một bản báo cáo trong đó nêu ra thực trạng về áp dụng GP tại QUATEST 2, phân tích những ưu nhược điểm và kiến nghị, đề xuất làm cơ sở để QUATEST 2 tiến hành cải tiến, nâng cao năng suất, chất lượng cung cấp dịch vụ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên, thực hành 5S, bảo vệ môi trường, …

Báo cáo kết quả khảo sát QUATEST 2 của các chuyên gia và học viên APO

Lãnh đạo QUATEST 2 đánh giá đây là cơ hội để nhìn nhận khách quan về tình hình thực tế áp dụng GP tại đơn vị và nhận định báo cáo của chuyên gia và các học viên sẽ là cẩm nang hữu ích để chỉ đạo cải tiến hơn nữa đối với các hoạt động GP tại QUATEST 2.

Tại buổi tổng kết khóa đào tạo vào ngày 10/11/2023, đại diện APO đã trao Giấy chứng nhận QUATEST 2 là đơn vị tổ chức khảo sát thực tế của khóa đào tạo về GP do APO và STAMEQ chủ trì tại Việt Nam năm 2023. Trong thời gian tới, QUATEST 2 tiếp tục đẩy mạnh triển khai Kaizen-5S trong toàn Trung tâm, cũng như xem xét, tiếp thu các đề xuất cải tiến của đoàn chuyên gia APO vì mục tiêu nâng cao năng suất và chất lượng môi trường làm việc tại QUATEST 2.

 

 

Đại diện APO trao Giấy chứng nhận cho QUATEST 2 

Tác giả: Đặng Thanh Giang (Phòng HC-TC)

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2
🏢 Địa chỉ: 97 Lý Thái Tổ, quận Thanh Khê, tp Đà Nẵng, 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, tp Đà Nẵng & Khối 8, P. Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
☎ Điện thoại: (0236) 2621068

  • -

QUATEST 2 KỶ NIỆM 44 NĂM NGÀY THÀNH LẬP

Ngày 08/11/1979, Trung tâm Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nhà nước Khu vực II (tiền thân của Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2) được thành lập theo Quyết định của Cục trưởng Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nhà Nước.

Từ một đơn vị ban đầu chỉ có chưa tới 10 người, với 4 phòng ban làm việc trong một căn nhà có diện tích, máy móc, trang thiết bị nhỏ hẹp, ít ỏi, nay sau 40 năm, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2 (QUATES 2) đã trở thành đơn vị sự nghiệp công lập với quy mô gần 200 cán bộ nhân viên, 18 Phòng ban và 1 Trung tâm Kỹ thuật Tây Nguyên trực thuộc, cơ sở vật chất với tài sản lên đến hàng trăm tỉ đồng.

Có thể nói, trong suốt chặng đường 44 năm hình thành và phát triển, QUATEST 2 luôn là một trong những đơn vị kỹ thuật mạnh của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Cùng với thế mạnh nguồn nhân lực chất lượng cao và các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, QUATEST 2 không chỉ cung cấp dịch vụ kỹ thuật trên địa bàn miền Trung – Tây Nguyên, mà còn khắp cả nước và các quốc gia trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Lào, Campuchia, …

Đạt được những thành tựu to lớn kể trên là do công sức bền bỉ và sự sáng tạo của tất cả thế hệ các cán bộ nhân viên của Trung tâm trong 4 thập kỷ qua đã phấn đấu không ngừng, luôn biết khắc phục và vượt qua những lúc khó khăn, phát huy tinh thần đoàn kết. Những thành tựu đó cũng bắt nguồn từ sự quan tâm, ủng hộ, chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, lãnh đạo Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, các Vụ qua các thời kỳ; sự giúp đỡ và phối hợp của các Sở Khoa học và Công nghệ, các Chi cục và Trung tâm Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng trong địa bàn, và đặc biệt là sự tin tưởng ủng hộ của quý khách hàng.

44 năm một chặng đường, 44 năm với bao nỗ lực và cố gắng không ngừng của tập thể cán bộ nhân viên QUATEST 2 đã và sẽ cùng nhau chung tay để có được một QUATEST 2 bền vững và phát triển hơn nữa.

Tác giả: Nguyễn Hồng Hạnh (Phòng TT&DVKH)

Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 2

🏢 Địa chỉ: 97 Lý Thái Tổ, quận Thanh Khê, tp Đà Nẵng, 02 Ngô Quyền, quận Sơn Trà, tp Đà Nẵng & Khối 8, P. Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

☎ Điện thoại: (0236) 2621068

🌏 Website: www.quatest2.gov.vn


Call Now Button